Truy cập

Hôm nay:
121
Hôm qua:
174
Tuần này:
795
Tháng này:
4989
Tất cả:
298219

Ý kiến thăm dò

Thủ tướng Chính Phủ trả lời chất vấn

Ngày 21/02/2014 15:26:40

Để tạo điều kiện cho cán bộ, công chức xem toàn văn ý kiến trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội của Thủ Tướng Chính Phủ Nguyễn Tấn Dũng tại kỳ họp thứ VI Quốc hội khóa XIII. VPUBND xã sao lưu từ Cổng thông tin điện tử Chính Phủ và đăng toàn văn bài trả lời chất vấn của Thủ Tướng Chính Phủ:

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày Báo cáo giải trình và trả lời chất vấn Quốc hội - Ảnh: VGP

TOÀN VĂN BÁO CÁO GIẢI TRÌNH VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN CỦA

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN TẤN DŨNG

TẠI KỲ HỌP THỨ 6, QUỐC HỘI KHÓA XIII

Hà Nội, ngày 21 tháng 11 năm 2013

____________

Thưa Quốc hội,

Tôi cảm ơn 14 vị đại biểu Quốc hội đã có câu hỏi chất vấn. Tôi xin trình bày về từng nội dung chất vấn như sau:

- Về ý kiến chất vấn của đại biểu Trần Thị Hiền

1.Đại biểu nêu:Tại kỳ họp này, theo đề nghị của Chính phủ, Quốc hội đã đồng ý nâng mức bội chi ngân sách từ 4,8% lên 5,3% GDP và phát hành bổ sung 170 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên là đại biểu Quốc hội, chúng tôi còn băn khoăn nếu không có giải pháp hữu hiệu thì lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô quay trở lại. Đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho biết quan điểm của Thủ tướng về vấn đề này như thế nào?

Tôi xin báo cáo như sau:

Việc tăng bội chi ngân sách nhà nước từ 4,8% lên 5,3% GDP cho năm 2013, năm 2014 và phát hành bổ sung 170.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2014 - 2016 có làm cho lạm phát cao, có làm cho bất ổn kinh tế vĩ mô quay trở lại không và có trả được nợ không. Đây là băn khoăn lo lắng chính đáng.

Thưa Đại biểu. Mục đích, ý nghĩa của việc tăng bội chi ngân sách và phát hành bổ sung thêm trái phiếu Chính phủ cũng như những giải pháp để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng hợp lý… đã được trình bày trong Báo cáo của Chính phủ ngay đầu kỳ họp, trong Báo cáo giải trình vừa mới trình bày của Thủ tướng Chính phủ (cả trang 3 và trang 4) và trong Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 cũng đã đề cập. Tôi xin không trình bày lại mà chỉ xin nhấn mạnh lànếu như chúng ta thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp đã đề rathì mục tiêu tăng trưởng GDP 5,8% năm 2014, 6% năm 2015 và kiểm soát lạm phát khoảng 7%, đồng thời giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, trả được nợ, bảo đảm nợ công trong giới hạn an toànlà khả thi.

- Về chất vấn của đại biểu Hà Sỹ Đồng:

2.Nội dung chất vấn của Đại biểu nêu:Tình trạng nợ đọng các nghị định, quyết định của Chính phủ để hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh kéo dài nhiều năm làm giảm hiệu lực thi hành, hiệu quả quản lý nhà nước, ảnh hưởng đến kỷ luật, kỷ cương của đất nước. Xin Thủ tướng Chính phủ cho biết giải pháp của Chính phủ để khắc phục tình trạng này?(Đại biểu Ngô Văn Minh cũng chất vấn về nội dung này).

Về chất vấn này, tôi xin trình bày như sau:

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhận thức rõ và luôn coi việc xây dựng, trình các dự án luật, pháp lệnh theo Nghị quyết của Quốc hội và xây dựng, ban hành các nghị định, quy định chi tiết để thi hành luật, pháp lệnh là một nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên của Chính phủ. Phiên họp thường kỳ hàng tháng của Chính phủ đều dành thời gian để làm nhiệm vụ này. Khi cần thiết, Chính phủ tổ chức họp phiên chuyên đề để thực hiện riêng nhiệm vụ này - để thảo luận về dự án luật, pháp lệnh, thảo luận về nghị định, quyết định để thi hành luật, pháp lệnh.

Tình hình nợ các văn bản, nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để thi hành luật, pháp lệnh đã diễn ra nhiều năm. Tuy năm sau có tiến bộ hơn năm trước nhưng vẫn còn chậm. Từ đầu năm 2012, Chính phủ đã tập trung sức khắc phục hạn chế yếu kém này. Đến cuối năm 2012, còn nợ 27 văn bản là nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh. Đây là một bước tiến bộ, là mức nợ thấp nhất so với 10 năm trước. Nhưng vẫn còn là một khuyết điểm, một hạn chế yếu kém của Chính phủ.

Năm 2013, các luật và pháp lệnh có hiệu lực thi hành nhiều hơn. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải ban hành tới 129 nghị định, quyết định quy định chi tiết thi hành 38 luật và pháp lệnh, tăng gấp đôi so với năm 2012. Riêng Luật xử phạt vi phạm hành chính phải ban hành tới 53 văn bản. Ngay từ đầu năm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đặc biệt quan tâm thực hiện nhiệm vụ này. Đến hôm qua (20/11/2013, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam báo cáo với Thủ tướng Chính phủ về nội dung bàn giao với Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ mới Nguyễn Văn Nên) thì đã ban hành được 110, còn nợ 19 văn bản. Năm 2013 mặc dù số văn bản phải ban hành tăng gấp đôi nhưng chỉ còn nợ 19 văn bản (năm 2012 nợ 27 văn bản). Chúng tôi cố gắng phấn đấu tới cuối năm, còn hơn một tháng nữa, sẽ ban hành hầu hết những văn bản còn lại, trừ một số văn bản khó ban hành và chưa thật là cấp bách.

Mặt khác, về chất lượng văn bản, từng bước đã được nâng lên và đã có nhiều tiến bộ. Nhưng vẫn còn một số điều quy định khi ban hành không phù hợp với thực tiễn cuộc sống, thiếu tính khả thi. Tuy chỉ là một số rất ít so với nhiều quy định đã ban hành nhưng gây bức xúc như đại biểu đã nêu.

Để khắc phục tình trạng nợ đọng và hạn chế về chất lượng văn bản, Chính phủ sẽ tiếp tục tập trung chỉ đạo 4 nhóm giải pháp sau:

Thứ nhấtlà đề cao trách nhiệm người đứng đầu, coi đây là kỷ luật kỷ cương thi hành pháp luật. Từ Thủ tướng, các Phó Thủ tướng cho đến các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ phải chịu trách nhiệm về việc xây dựng dự án luật, pháp lệnh để trình Quốc hội theo chương trình và xây dựng, ban hành nghị định, quy định trong phạm vi được phân công phụ trách là một nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên.

Thứ hai,kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ chuyên trách am hiểu về pháp luật để tham mưu giúp cho đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng làm tốt hơn công tác xây dựng văn bản quy định pháp luật.

Thứ ba, rà soát để sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền và kiến nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm bớt những quy trình, thủ tục làm kéo dài thời gian ban hành văn bản nhưng vẫn đảm bảo chặt chẽ.

Thứ tư,Điều hết sức quan trọng là phải xác định rõ tư tưởng chính sách và giải pháp chủ yếu để thực hiện trước khi soạn thảo xây dựng văn bản pháp quy. Không làm được điều này sẽ khó tạo được đồng thuận, thời gian sẽ kéo dài và chất lượng văn bản sẽ không cao.

Với các giải pháp nêu trên và bảo đảm đủ kinh phí cho nhiệm vụ này, Chính phủ sẽ phấn đấu không còn nợ đọng văn bản quy định chi tiết để thi hành luật, pháp lệnh và chất lượng văn bản pháp quy cũng sẽ từng bước được nâng lên.

3.Về nội dung chất vấn của Đại biểu nêu:Hiện nay có nhiều địa phương trong nước không có dầu nhưng vẫn được cấp phép xây dựng nhà máy lọc dầu; từ đó thông tin dư luận cho đây như một hội chứng. Xin Thủ tướng Chính phủ cho biết quan điểm của Chính phủ về quản lý quy hoạch và cấp phép các cơ sở lọc dầu để vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa đảm bảo môi trường và phù hợp với nguồn lực thực tiễn.

Về chất vấn này, tôi xin trình bày như sau:

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy hoạch phát triển ngành dầu khí Việt Nam. Hiện nay, các dự án có trong quy hoạch là:

Thứ nhấtlà Nhà máy lọc dầu Dung Quất đang vận hành tốt, công suất 6,5 triệu tấn/năm và có hiệu quả kinh tế, xã hội cao. Đang đàm phán để bán cổ phần cho đối tác Nga và dự kiến nâng công suất Nhà máy này lên 10 triệu tấn/năm.

Thứ hailà Dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn - Thanh Hóa có công suất 10 triệu tấn/năm. Chủ đầu tư là tổ hợp gồm Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (25%), đối tác Kuwait (35%) và đối tác Nhật Bản (40%). Dự án này đã được chính thức khởi công xây dựng vào tháng 10/2013. Đối tác Kuwait đã cam kết cung cấp nguyên liệu dầu thô cho cả đời Dự án này.

Thứ balà Nhà máy lọc dầu Phú Yên, chủ đầu tư là một Doanh nghiệp của Nga đầu tư 100% vốn. Các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã thẩm định và cấp Giấy chứng nhận đầu tư với công suất 8 triệu tấn/năm. Tỉnh Phú Yên đang đôn đốc chủ đầu tư khẩn trương chuẩn bị khởi công.

Thứ tưlà Dự án Nhà máy lọc dầu số 3 ở khu vực Long Sơn - Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây là Dự án nằm trong quy hoạch từ trước đây. Hiện đang kêu gọi đầu tư. Khu vực này cũng đang chuẩn bị triển khai một dự án hóa dầu.

Thứ năm,Nhà máy lọc dầu Cần Thơ công suất 2 triệu tấn/năm đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư nhưng chủ đầu tư có khả năng không thực hiện được nên Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Thành phố Cần Thơ xem xét thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư.

Thứ sáulà Dự án nhà máy lọc dầu Nam Vân Phong - Khánh Hòa. Đang kêu gọi đầu tư.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội. Có một Dự án chưa có trong quy hoạch. Đó là một tập đoàn kinh tế của Thái Lan, có giới thiệu của Chính phủ Thái Lan, xin đầu tư khu lọc hóa dầu với công suất 30 triệu tấn/năm ở Khu kinh tế Nhơn Hội - Bình Định. Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho chủ đầu tư này lập Dự án đầu tư, trình các cơ quan chức năng của Việt Nam thẩm định, nếu Dự án tuân thủ pháp luật Việt Nam, có hiệu quả cho cả Việt Nam và chủ đầu tư thì Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét, phê duyệt bổ sung vào quy hoạch.

- Về chất vấn của đại biểu Nguyễn Thị Phúc:

4.Về nội dung chất vấn của Đại biểu nêu:Thủy điện đã đóng góp một phần rất quan trọng vào việc bảo đảm điện năng cho đất nước. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc lập quy hoạch, đầu tư xây dựng thi công và vận hành thủy điện đã gây ra nhiều hệ lụy cho cuộc sống người dân. Xin Thủ tướng Chính phủ cho biết những giải pháp của Chính phủ nhằm khắc phục nhanh những tồn tại, hạn chế yếu kém trong lĩnh vực này. (Đại biểu Trần Thị Dung cũng chất vấn nội dung này).

Về vấn đề này, tôi xin trình bày như sau:

Thưa các vị đại biểu Quốc hội. Thủy điện là tiềm năng, lợi thế lớn của nước ta, cần được khai thác, sử dụng hiệu quả để xây dựng đất nước. Trong những năm qua, thủy điện đã đóng góp rất quan trọng vào đảm bảo điện năng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tại kỳ họp này của Quốc hội, Chính phủ đã có Báo cáo tổng thể về tình hình thủy điện, trong đó đã nêu khá rõ những mặt tích cực, hiệu quả của thủy điện và những tồn tại, hạn chế, yếu kém cả trong quy hoạch, trong lập, thẩm định, phê duyệt dự án và trong thi công xây dựng công trình; trong di dân tái định cư; trong việc bảo đảm môi trường sinh thái. Những hạn chế yếu kém này có nhiều nguyên nhân; trong đó nguyên nhân chủ quan chủ yếu là yếu kém trong quản lý nhà nước của Chính phủ, của chính quyền địa phương mà trực tiếp là các cơ quan chức năng của Chính phủ, của chính quyền địa phương.

Tiếp thu ý kiến tâm huyết, trách nhiệm của các vị đại biểu Quốc hội và của đồng bào cử tri, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đang tập trung chỉ đạo khắc phục những tồn tại, hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực này. Chính phủ sẽ khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội. Tinh thần chung là phát huy tốt nhất những mặt tích cực, hiệu quả của thủy điện, đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp để khắc phục nhanh những tồn tại, hạn chế, yếu kém. Dự án thủy điện phải bảo đảm hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, môi trường sinh thái và bảo đảm an toàn. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo thực hiện ba nhóm giải pháp cụ thể sau đây:

Thứ nhất,đối với các nhà máy thủy điện đang vận hành(hiện có 268 nhà máy với công suất hơn 14 nghìn MW):

- Rà soát, đánh giá lại sự an toàn của hồ, đập. Công trình nào không an toàn thì phải ngừng hoạt động.

- Rà soát, sửa đổi bổ sung quy trình vận hành hồ chứa đã được phê duyệt cho phù hợp với diễn biến thực tế của khí hậu, thời tiết cả mùa lũ và mùa cạn kiệt. Đồng thời, phải công khai cho nhân dân biết quy trình vận hành, không phải đợi tới khi có lũ, tới cạn kiệt mới thông báo. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ủy ban nhân dân các địa phương thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ được giao, chịu trách nhiệm quản lý chặt chẽ và buộc các chủ đầu tư phải thực hiện đúng quy trình vận hành hồ chứa, xử lý nghiêm vi phạm, từ xử phạt hành chính, kinh tế cho đến trách nhiệm hình sự theo đúng quy định của pháp luật. Yêu cầu các Bộ chức năng quản lý trên lĩnh vực này thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ được giao.

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì cùng với Bộ Công Thương khẩn trương đề xuất chính sách bổ sung đối với hộ nghèo ở những vùng tái định cư của các dự án thủy điện. Đồng thời, yêu cầu rà soát, sửa đổi bổ sung chính sách di dân tái định cư để áp dụng cho những dự án thủy điện khởi công mới.

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát, bổ sung cơ chế chính sách và yêu cầu Ủy ban nhân dân các địa phương chỉ đạo các chủ đầu tư thực hiện đúng cam kết trồng lại rừng đối với diện tích rừng đã mất do làm dự án thủy điện. Đối với địa phương không có đất để trồng bù rừng, yêu cầu chủ đầu tư đóng tiền để trồng bù rừng ở địa phương khác theo quy định.

Thứ hai, đối với các Dự án đang khởi công xây dựng(hiện có 205 dự án với công suất hơn 6.200 MW), Chính phủ yêu cầu:

- Rà soát lại thiết kế với yêu cầu là phải bảo đảm an toàn. Nếu chưa an toàn phải dừng lại để bổ sung. Không đợi đến khi xây dựng xong công trình.

- Rà soát phương án tái định cư bảo đảm đúng chính sách pháp luật. Xem xét bổ sung đối với từng dự án cụ thể để bảo đảm mục tiêu đưa dân đến nơi ở mới từng bước có cuộc sống tốt hơn.

- Kiểm tra phương án trồng bù rừng. Yêu cầu chủ đầu tư phải thực hiện đúng cam kết.

- Theo quy định, quy trình vận hành hồ chứa phải được chủ đầu tư xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt đồng bộ với việc thẩm định thiết kế cơ sở. Yêu cầu chủ đầu tư phải thực hiện đúng quy định để khi dự án thủy điện đi vào hoạt động phải có Quy trình vận hành hồ chứa được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Và phải bảo đảm các mục tiêu về hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, bảo đảm môi trường sinh thái và an toàn hồ đập.

Thứ ba, đối với số dự án nằm trong quy hoạch chưa khởi công xây dựng(khoảng 348 dự án). Tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, Chính phủ sẽ chỉ đạo tiếp tục rà soát lại quy hoạch, quản lý quy hoạch chặt chẽ hơn với trách nhiệm cao hơn đối với việc chấp thuận đầu tư mới các dự án thủy điện.

- Bộ Công Thương chịu trách nhiệm quản lý quy hoạch thủy điện trong cả nước; cùng với các bộ ngành, địa phương liên quan rà soát lại, tổ chức thẩm định và phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch đối với các dự án thủy điện còn lại chưa xây dựng này. Báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi phê duyệt.

- Việc đầu tư xây dựng mới phải được quản lý chặt chẽ hơn. Đối với dự án thủy điện nhóm B, nhóm C, Bộ Công Thương chịu trách nhiệm thẩm định, đánh giá kỹ các mặt, bảo đảm các tiêu chí theo quy định và tuân thủ đúng pháp luật thì mới chấp thuận cho phép đầu tư. Đối với dự án nhóm A, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định. Đối với dự án thuộc thẩm quyền Quốc hội quyết định, thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật.

Thưa Quốc hội,

Theo chương trình đã quy định của Đoàn Chủ tịch. Thời gian tôi trực tiếp trả lời chất vấn không còn. Tôi xin được dừng ở đây. Các chất vấn còn lại của các vị đại biểu Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ sẽ trả lời bằng văn bản và đăng công khai trên Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ.

Thay mặt Chính phủ, tôi xin chúc các vị đại biểu Quốc hội, đồng chí đồng bào sức khỏe, hạnh phúc, thành đạt.

Xin cám ơn Quốc hội.

*

* *

Như đã hứa trước Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trả lời bằng văn bản chất vấn của 11 Đại biểu còn lại. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ xin đăng toàn văn trả lời của Thủ tướng:

- Về chất vấn của đại biểu Trần Du Lịch:

5.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Trong Báo cáo của Thủ tướng trước Quốc hội, khi đánh giá về những nguyên nhân hạn chế, yếu kém, có nguyên nhân là "Nhận thức trên một số vấn đề về chủ trương, quan điểm phát triển đã được đề ra vẫn còn khác nhau, dẫn đến đổi mới thể chế chính sách có một số vấn đề ngập ngừng, thiếu nhất quán, nhất là vai trò của nhà nước và vai trò của kinh tế nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Xin Thủ tướng cho biết và làm rõ hướng tới như thế nào nhằm bảo đảm sự nhất quán trong thực thi đẩy mạnh đổi mới thể chế chính sách để chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, tạo niềm tin thị trường.

Về chất vấn này xin trình bày như sau:

Chúng ta kiên định xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đây là con đường chưa có tiền lệ. Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 2011 của Đảng ta xác định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”, trong đó “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”; “các yếu tố thị trường phải được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân thủ theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã nêu rõ “Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường”. Và Hội nghị Trung ương 6, khóa XI của Đảng xác định “Doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ hỗ trợ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Những chủ trương lớn trên đây của Đảng phải được quán triệt, thể chế hóa và tổ chức thực hiện. Nhưng vai trò của Nhà nước, của Kinh tế nhà nước và của Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là những vấn đề rất mới, chưa có sẵn mô hình. Trong quá trình triển khai, nhận thức về phạm vi, nội hàm, định lượng, giải pháp, lộ trình, bước đi… ý kiến cũng rất khác nhau, phải chờ đợi nhau và phải dành nhiều thời gian thảo luận để cụ thể hóa. Phải vừa làm, vừa tổng kết rút kinh nghiệm, lấy kết quả thực tiễn để khẳng định sự phù hợp cũng như phương hướng và cách làm tiếp theo. Vì vậy, việc triển khai thực hiện có lúc, có việc chưa dứt khoát, chưa mạnh mẽ, chưa nhất quán và kết quả đạt được chưa như mong muốn.

Thời gian tới, cần tập trung nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để khẳng định mô hình, thống nhất nhận thức và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, đưa nhanh các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. Đồng thời phải Đẩy mạnh toàn diện công cuộc Đổimới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

- Về chất vấn của đại biểu Đỗ Thị Hoàng:

6.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho biết kết quả tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thời gian qua và các giải pháp tiếp tục thực hiện lộ trình từ nay đến năm 2015.

Xin trình bày như sau:

Kết quả tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp tiếp tục thực hiện lộ trình tái cơ cấu từ nay đến năm 2015 đã được trình bày trong các báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp này.

Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa, kể cả các tập đoàn kinh tế; thoái vốn đầu tư ngoài ngành và bán phần vốn mà Nhà nước không cần nắm giữ theo nguyên tắc thị trường, bao gồm cả doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả. Doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào lĩnh vực then chốt, thiết yếu, địa bàn quan trọng và quốc phòng an ninh. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh với nhiệm vụ chính trị, công ích. Hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước và đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra của chủ sở hữu nhà nước. Kiện toàn cán bộ quản lý và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp. Thực hiện công khai minh bạch kết quả hoạt động theo quy định của pháp luật. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm và không nghiêm túc thực hiện Đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt.

Phấn đấu đến hết năm 2015 hoàn thành việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính và thực hiện cổ phần hóa khoảng 500 trên tổng số 1.069 doanh nghiệp nhà nước.

- Về chất vấn của đại biểu Lê Như Tiếnđại biểu Nguyễn Thị Khá:

7.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Là người đứng đầu Chính phủ, xin Thủ tướng cho biết trách nhiệm trước Quốc hội về kết quả phòng chống tham nhũng của các cơ quan hành chính nhà nước. Trải qua gần 2 nhiệm kỳ, Thủ tướng đã đề nghị cắt bỏ hoặc trực tiếp cắt bỏ được bao nhiêu ung nhọt quốc nạn tham nhũng. Xin cho biết nguyên nhân và trách nhiệm liên quan đến việc thi hành án, số tài sản thu hồi được từ các vụ án tham nhũng thấp, chỉ đạt khoảng 20%, có vụ chỉ 10%; giải pháp đột phá trong thời gian tới để khắc phục, đặc biệt là 10 vụ đại án tham nhũng đã, đang và sẽ được xét xử.

Xin trình bày như sau:

Công tác phòng chống tham nhũng luôn được Đảng, Nhà nước thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Thủ tướng Chính phủ với trách nhiệm người đứng đầu Chính phủ (từ tháng 6 năm 2006) và Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng (từ tháng 9 năm 2006 đến tháng 02 năm 2013) đã nghiêm túc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Tập trung chỉ đạo xây dựng và thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng chống tham nhũng, đặc biệt là Hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính; công khai minh bạch các chính sách liên quan đến doanh nghiệp, người dân và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Tăng cường thông tin tuyên truyền, phát huy vai trò của nhân dân và báo chí trong phòng chống tham nhũng. Nâng cao năng lực và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chức năng. Đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra, điều tra và đôn đốc xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng theo đúng quy định của pháp luật, nhất là các vụ tham nhũng nghiêm trọng.

Chính phủ đã sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X, tổng kết 5 năm thực hiện Luật phòng chống tham nhũng và cũng đã báo cáo Quốc hội về công tác phòng chống tham nhũng năm 2012 và 2013. Các báo cáo đều đánh giá công tác phòng chống tham nhũng đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành động và đạt được những kết quả bước đầu, nhất là trong phòng ngừa tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính, quản lý tài sản công, thực hiện công khai, minh bạch. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng đã từng bước được kiềm chế. Trong giai đoạn 2007 - 2013, đã truy tố gần 2.200 vụ án về tham nhũng với gần 5.300 bị can; xét xử 1.900 vụ với trên 4.300 bị cáo (đây chính là những ung nhọt). Các vụ án tham nhũng lớn đã, đang và sẽ đưa ra xét xử nghiêm minh, theo đúng quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, công tác phòng chống tham nhũng vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng. Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây bức xúc trong xã hội. Không ít cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa tự phát hiện được tham nhũng. Tham nhũng được phát hiện chủ yếu từ người dân, báo chí phản ánh hoặc do cơ quan chức năng kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra phát hiện. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan chức năng về phòng chống tham nhũng có mặt còn hạn chế. Việc xử lý một số vụ việc tham nhũng còn chậm.

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ án tham nhũng kéo dài do mất nhiều thời gian giám định thiệt hại về kinh tế, dẫn đến các tài sản là tang vật vụ án bị hư hỏng, xuống cấp, mất giá trị khi bán đấu giá, không thu hồi được đủ số tiền bị thất thoát, chiếm đoạt. Đồng thời, đối tượng tham nhũng thường có nhiều thủ đoạn tinh vi đối phó, che giấu, tẩu tán tài sản nên số tài sản, tiền kê biên ít, việc thu hồi tài sản trong thi hành án gặp nhiều khó khăn.

Thời gian tới, thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ ngành, địa phương trong bộ máy hành chính nhà nước thực hiện nghiêm túc các quy định về phòng chống tham nhũng, thực hiện đồng bộ các giải pháp với tinh thần kiên quyết, kiên trì, liên tục, đúng pháp luật để tạo chuyển biến tốt hơn. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước và trách nhiệm của người đứng đầu. Tăng cường cải cách thủ tục hành chính theo hướng công khai, minh bạch, nhất là trong các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin báo chí và nhân dân trong phòng chống tham nhũng.

Về thu hồi tài sản trong thi hành án. Chính phủ chỉ đạo khẩn trương hoàn thiện các quy định về giám định tư pháp, nhất là giám định tài chính, giám định chất lượng công trình để rút ngắn thời gian giám định thiệt hại, phục vụ kịp thời, hiệu quả việc xử lý hành vi tham nhũng. Hoàn thiện quy định pháp luật để ngăn chặn các hành vi đối phó che dấu tài sản và kiểm soát chặt chẽ tài sản của các đối tượng tham nhũng. Kiên quyết thu hồi tài sản của Nhà nước bị chiếm đoạt theo quy định của pháp luật. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án.

Những kết quả đạt được và những hạn chế yếu kém trong phòng chống tham nhũng có phần đóng góp cũng như trách nhiệm của Ủy viên Bộ Chính trị - Thủ tướng Chính phủ.

- Về chất vấn của đại biểu Ngô Văn Minh:

8.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Tính đến ngày 15/10/2013, Chính phủ còn nợ 51% văn bản quy định chi tiết để hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh đã được Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua. Xin Thủ tướng cho biết trong khi chưa có văn bản quy định chi tiết thì Chính phủ đã điều chỉnh các quan hệ xã hội và xử lý vi phạm pháp luật theo quy định nào và người dân sẽ chấp hành quy định nào của pháp luật. Cơ quan công quyền gây ra sự chậm trễ này có phải là hành vi vi phạm pháp luật không. Nếu đúng là hành vi vi phạm pháp luật thì tại sao trong báo cáo kiến nghị giải pháp không thấy có việc xử lý trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan để đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm minh.

Xin trình bày như sau:

Tình hình nợ các văn bản quy định chi tiết thi hành pháp luật và giải pháp khắc phục Thủ tướng Chính phủ đã trình bày trong nội dung trả lời chất vấn trực tiếp của Đại biểu Hà Sỹ Đồng tại Phiên họp. Xin không trình bày lại.

Việc chậm ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành pháp luật là khuyết điểm. Để xử lý “khoảng trống” pháp luật do chậm ban hành, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp để khắc phục.

Đối với Luật xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ đã báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho tiếp tục áp dụng quy định của các nghị định hiện có mà không trái với quy định của Luật này cho đến khi các Nghị định mới có hiệu lực thi hành. Đối với trường hợp chậm ban hành mà có ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ, chính sách thì cho phép áp dụng “hồi tố” theo thời điểm được quy định trong luật, pháp lệnh. Đến hết năm 2013 đã hoàn thành việc ban hành 50 Nghị định quy định chi tiết đối với các điều khoản có hiệu lực thi hành của Luật xử lý vi phạm hành chính.

- Về chất vấn của đại biểu Nguyễn Thị Quyết Tâm:

9.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Đề nghị trong báo cáo của Thủ tướng và các báo cáo của Chính phủ cần quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả của công tác chỉ đạo và đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; giải pháp gì để các chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông thôn đi vào cuộc sống để người nông dân sống được, sống khá, làm giàu bằng nghề nông và xứng đáng với đóng góp của nông dân cho sự phát triển của đất nước.

Xin trình bày như sau:

Báo cáo giải trình của Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội đã trình bày rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước quan tâm và ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2009 - 2013 tăng hơn 2,6 lần so với 5 năm trước. Hệ thống cơ sở hạ tầng được cải thiện, kinh tế nông thôn và điều kiện sống của nông dân không ngừng nâng lên. Thu nhập hộ nông dân năm 2013 ước đạt khoảng 20 triệu đồng/năm, tăng 2,2 lần so với năm 2008. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, còn 7,8% (chủ yếu là ở nông thôn).

Chính phủ chỉ đạothực hiện đồng bộ các giải pháp để đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới. Có cơ chế chính sách thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn. Khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng, nhất là giữa người nông dân và doanh nghiệp trong sản xuất, dịch vụ với quy mô phù hợp. Hình thành chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ. Tập trung phát triển sản phẩm có lợi thế so sánh, có khả năng cạnh tranh và thị trường tiêu thụ. Từng bước hình thành những tổ hợp nông - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao, gắn kết chặt chẽ với người nông dân và hướng tới xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp đa chức năng, phát triển bền vững.

Thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn, phát triển sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; chú trọng công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp sử dụng nhiều lao động để thúc đẩy tập trung ruộng đất, chuyển dịch cơ cấu lao động và kinh tế nông thôn. Đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả đào tạo nghề. Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Thực hiện hiệu quả chương trình giảm nghèo bền vững. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ, bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Tóm lại, phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới để cải thiện nhanh đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân và bảo đảm cho phát triển bền vững của đất nước.

- Về chất vấn của đại biểu Trương Thị Huệ:

10.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Việc thực hiện kỷ cương kỷ luật hành chính chưa nghiêm lặp đi lặp lại nhiều năm, chưa được khắc phục, thậm chí còn có biểu hiện gia tăng. Đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho biết trách nhiệm của mình và giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

Xin trình bày như sau:

Kỷ luật kỷ cương trong thực thi pháp luật đã có nhiều tiến bộ nhưng có những mặt, những việc vẫn chưa nghiêm là một hạn chế, yếu kém, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, gây khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội và bức xúc trong nhân dân.

Kỷ luật kỷ cương hành chính chưa nghiêm trước hết là do công tác quản lý cán bộ, công chức còn nhiều bất cập. Trách nhiệm cán bộ, công chức, nhất là của người đứng đầu chưa được đề cao đúng mức; vẫn còn tình trạng buông lỏng quản lý. Sự phân định phạm vi và trách nhiệm trong lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền chưa đủ rõ, hiệu lực hiệu quả chưa đáp ứng được yêu cầu. Tinh thần thượng tôn pháp luật chưa được quán triệt và thực hiện nghiêm túc trong hoạt động của một số cơ quan hành chính nhà nước và trong thực thi công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức.

Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo các ngành, các cấp tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp nhằm nâng cao kỷ luật kỷ cương hành chính. Thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước và Đề án cải cách chế độ công vụ, công chức. Thực hiện công khai minh bạch hoạt động và đề cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

- Về chất vấn của đại biểu Trần Thị Dung:

11.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Đề nghị Thủ tướng cho biết ý kiến chỉ đạo việc các nhà máy thủy điện xả lũ không báo trước khiến người dânchính quyền các địa phương trong vùng bão lũ, nhất là vùng hạ du không kịp trở tay.Đại biểu Đỗ Văn Đương cũng chất vấn nội dung này.

Xin trình bày như sau:

Việc vận hành tích nước, xả lũ các hồ chứa nước, bao gồm cả hồ chứa thủy lợi, thủy điện là để điều tiết nước phục vụ sản xuất, đời sống và bảo đảm an toàn cho người dân và công trình. Theo quy định tại Nghị định số 72/2007/NĐ-CP về quản lý an toàn đập, trường hợp vận hành xả lũ hồ chứa làm dâng đột ngột mức nước tại hạ lưu thì chủ đập phải có biện pháp báo động, thông báo trước để bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản cho người dân. Tuy nhiên, hầu hết các hồ chứa ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên có dung tích nhỏ, nhất là các hồ chứa thủy điện nên khả năng điều tiết lũ kém. Đồng thời, việc dự báo sớm dòng chảy đến các hồ chứa còn khó khăn dẫn tới việc vận hành tích nước, xả lũ của hồ chứa còn bị động, thời gian thông báo xả lũ ngắn. Do đó, việc cắt giảm lũ cho hạ du trong một số trường hợp vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn.

Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp cả trước mắt và lâu dài để hạn chế thấp nhất thiệt hại do xả lũ; rà soát điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật, phân công rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan đến công tác quản lý an toàn đập. Ban hành và tiếp tục hoàn thiện quy trình vận hành hồ và liên hồ chứa; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện, xử lý nghiêm các sai phạm. Xây dựng phương án phòng, chống lũ lụt cho vùng hạ du để chủ động ứng phó khi các hồ chứa xả lũ. Nâng cao khả năng dự báo, cảnh báo sớm về tình hình mưa lũ. Đầu tư xây dựng hệ thống giám sát thông tin hồ chứa, báo động xả lũ, trước hết là đối với các hồ thủy điện, thủy lợi dung tích lớn.

- Về chất vấn của đại biểu Lê Nam:

12.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Yêu cầu đổi mới đất nước đang đặt ra phải có nhiều chuyên gia giỏi, nhiều Chính phủ đã tìm kiếm các nhân tài trên thế giới. Thủ tướng có mong muốn trưng cầu hiền tài từ nguồn nhân lực chất lượng cao quốc tế, trong đó có đội ngũ các nhà khoa học, nhà quản lý là người Việt Nam ở nước ngoài về giúp Chính phủ quản trị đất nước hay không. Thủ tướng có giải pháp đột phá nào về công tác cán bộ trong thời gian tới.

Xin trình bày như sau:

Đảng và Nhà nước ta luôn có chủ trương trọng dụng người có tài năng để tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bao gồm cả người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài. Hiện nay có khoảng 4,5 triệu người Việt Nam sinh sống ở hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó nhiều trí thức, chuyên gia được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn cao trong nhiều lĩnh vực.

Nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Đảng đã khẳng định Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của Cộng đồng dân tộc Việt Nam. Có chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, nhất là chuyên gia giỏi, đầu ngành, cán bộ trẻ, tài năng. Tạo đột phá trong thu hút các chuyên gia, nhà quản lý là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài làm việc và tham gia giảng dạy, nghiên cứu tại Việt Nam.

Tuy nhiên, việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài còn hạn chế. Chính phủ đang chỉ đạo các bộ ngành chức năng nghiên cứu xây dựng các đề án, đề xuất các cơ chế chính sách phù hợp để thu hút, trọng dụng người có tài tài năng là người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

- Về chất vấn của đại biểu Đỗ Văn Đương:

13.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Vì sao có sân golf trong Sân bay Tân Sơn Nhất và vì sao Sân bay Biên Hòa, Cần Thơ và một số sân bay khác còn hoạt động cầm chừng, chưa hiệu quả lại đầu tư Sân bay Long Thành. Đồng thời, đề nghị Thủ tướng nói rõ hơn việc xả lũ thủy điện không đúng quy định và sự chỉ đạo của Thủ tướng để khắc phục vấn đề này.

Xin trình bày như sau:

Theo đề nghị của các Bộ: Quốc phòng, Xây dựng, Giao thông vận tải và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh về việc sử dụng có hiệu quả đất thuộc khu vực tĩnh không của Sân bay Tân Sơn Nhất và Sân bay Gia Lâm để xây dựng sân golf và một số công trình thể thao phù hợp (như nhiều nước đã làm), Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý và giao Bộ Quốc phòng lập quy hoạch các sân golf nói trên, quyết định cụ thể việc đầu tư xây dựng các công trình phụ trợ của từng dự án, bảo đảm an ninh, an toàn hoạt động bình thường của sân bay và phù hợp với Quy hoạch chung của hai Thành phố. Thực hiện đúng quy định về đầu tư xây dựng và thuê đất. Trường hợp Nhà nước cần thu hồi đất thì phải trả lại và không được bồi thường.

Về việc đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là trung tâm kinh tế và có nhu cầu vận tải hàng không lớn nhất của cả nước, đòi hỏi phải có cảng hàng không quốc tế quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu trung chuyển quốc tế và nội địa. Sân bay Tân Sơn Nhất có công suất tối đa khoảng 25 triệu hành khách/năm, nằm trong trung tâm thành phố, mật độ dân số cao, quỹ đất dành cho phát triển mở rộng sân bay không còn, không có hệ thống giao thông tiếp cận tương ứng, không thể xây dựng thêm đường cất hạ cánh theo giãn cách tối thiểu ICAO quy định(1.340 m). Do đó, việc mở rộng để nâng công suất lên 30-40 triệu hành khách/năm rất tốn kém và không khả thi. Mặt khác, vị trí rất gần với Sân bay quân sự Biên Hòa nên việc sử dụng đồng thời 2 sân bay sẽ bị hạn chế bởi năng lực của vùng trời, đặc biệt là khi tần suất khai thác ngày càng tăng cao.

Cảng hàng không quốc tế Long Thành có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu giao thông qua cửa ngõ thành phố Hồ Chí Minh ngày càng tăng bổ sung cho Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất khi quá tải. Cảng hàng không quốc tế Long Thành đã có trong Quy hoạch phát triển hệ thống cảng hàng không cả nước. Hiện nay, các cơ quan chức năng đang triển khai các thủ tục lậpBáo cáo đầu tư để trình Hội đồng thẩm định Nhà nước trước khi Chính phủ báo cáo Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư. Sau khi được Quốc hội thông qua thì mới triển khai các thủ tục kêu gọi vốn đầu tư để thực hiện.

Về xả lũ thủy điện, Thủ tướng Chính phủ đã trả lời chất vấn của Đại biểu Trần Thị Dung, xin không trình bày lại. Riêng về an toàn hồ chứa thủy lợi, thủy điện, trong Báo cáo giải trình và trả lời chất vấn của Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội và trong trả lời chất vấn đại biểu Nguyễn Thị Phúc cũng đã đề cập nội dung này. Chính phủ đang chỉ đạo sửa đổi Nghị định số 72/2007/NĐ-CP về quản lý an toàn hồ đập cho phù hợp, trong đó có quy định về quy trình vận hành để đảm bảo an toàn. Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp tăng cường công tác quản lý, bảo đảm an toàn hồ chứa theo Chỉ thị số 21/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

- Về chất vấn của đại biểu Đặng Thị Kim Chi:

14.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Về việc tạm nhập tái xuất 30 nghìn tấn đường của Hoàng Anh - Gia Lai cũng như giải pháp gì để giúp cho 40 nhà máy đường, hàng triệu người nông dân và hàng vạn người lao động ở các nhà máy đường được đảm bảo cuộc sống.

Xin trình bày như sau:

Công ty cổ phần đường Biên Hòa đề nghị cho phép nhập khẩu đường thô của Công ty Hoàng Anh – Gia Lai sản xuất tại Lào về Việt Nam để chế biến thành đường tinh luyện và xuất sang Trung Quốc. Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ ngành liên quan xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ phương án xử lý theo tinh thần bảo đảm tuân thủ đúng quy định của pháp luật và các cam kết quốc tế.

Thời gian tới, ngành mía đường phải thực hiện tái cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững để nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh nhằm phát triển ổn định ngành mía đường và cải thiện đời sống người trồng mía. Tập trung rà soát hoàn thiện quy hoạch; áp dụng đồng bộ các giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành mía nguyên liệu và sản phẩm đường. Tăng nhanh diện tích trồng mía giống mới, có năng suất cao; tổ chức lại sản xuất, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung gắn với lợi ích của người trồng mía và Nhà máy đường. Đẩy mạnh cơ giới hóa; giảm tổn thất sau thu hoạch. Nâng cao hiệu quả chế biến, đa dạng hóa sản phẩm đường, sau đường... Tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm và chống buôn lậu.

Xin cảm ơn các vị Đại biểu Quốc hội.
( Nguồn từ Coiongr thông tin điện tử Chính Phủ) TT

Thủ tướng Chính Phủ trả lời chất vấn

Đăng lúc: 21/02/2014 15:26:40 (GMT+7)

Để tạo điều kiện cho cán bộ, công chức xem toàn văn ý kiến trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội của Thủ Tướng Chính Phủ Nguyễn Tấn Dũng tại kỳ họp thứ VI Quốc hội khóa XIII. VPUBND xã sao lưu từ Cổng thông tin điện tử Chính Phủ và đăng toàn văn bài trả lời chất vấn của Thủ Tướng Chính Phủ:

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày Báo cáo giải trình và trả lời chất vấn Quốc hội - Ảnh: VGP

TOÀN VĂN BÁO CÁO GIẢI TRÌNH VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN CỦA

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN TẤN DŨNG

TẠI KỲ HỌP THỨ 6, QUỐC HỘI KHÓA XIII

Hà Nội, ngày 21 tháng 11 năm 2013

____________

Thưa Quốc hội,

Tôi cảm ơn 14 vị đại biểu Quốc hội đã có câu hỏi chất vấn. Tôi xin trình bày về từng nội dung chất vấn như sau:

- Về ý kiến chất vấn của đại biểu Trần Thị Hiền

1.Đại biểu nêu:Tại kỳ họp này, theo đề nghị của Chính phủ, Quốc hội đã đồng ý nâng mức bội chi ngân sách từ 4,8% lên 5,3% GDP và phát hành bổ sung 170 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ. Tuy nhiên là đại biểu Quốc hội, chúng tôi còn băn khoăn nếu không có giải pháp hữu hiệu thì lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô quay trở lại. Đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho biết quan điểm của Thủ tướng về vấn đề này như thế nào?

Tôi xin báo cáo như sau:

Việc tăng bội chi ngân sách nhà nước từ 4,8% lên 5,3% GDP cho năm 2013, năm 2014 và phát hành bổ sung 170.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2014 - 2016 có làm cho lạm phát cao, có làm cho bất ổn kinh tế vĩ mô quay trở lại không và có trả được nợ không. Đây là băn khoăn lo lắng chính đáng.

Thưa Đại biểu. Mục đích, ý nghĩa của việc tăng bội chi ngân sách và phát hành bổ sung thêm trái phiếu Chính phủ cũng như những giải pháp để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng hợp lý… đã được trình bày trong Báo cáo của Chính phủ ngay đầu kỳ họp, trong Báo cáo giải trình vừa mới trình bày của Thủ tướng Chính phủ (cả trang 3 và trang 4) và trong Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 cũng đã đề cập. Tôi xin không trình bày lại mà chỉ xin nhấn mạnh lànếu như chúng ta thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp đã đề rathì mục tiêu tăng trưởng GDP 5,8% năm 2014, 6% năm 2015 và kiểm soát lạm phát khoảng 7%, đồng thời giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, trả được nợ, bảo đảm nợ công trong giới hạn an toànlà khả thi.

- Về chất vấn của đại biểu Hà Sỹ Đồng:

2.Nội dung chất vấn của Đại biểu nêu:Tình trạng nợ đọng các nghị định, quyết định của Chính phủ để hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh kéo dài nhiều năm làm giảm hiệu lực thi hành, hiệu quả quản lý nhà nước, ảnh hưởng đến kỷ luật, kỷ cương của đất nước. Xin Thủ tướng Chính phủ cho biết giải pháp của Chính phủ để khắc phục tình trạng này?(Đại biểu Ngô Văn Minh cũng chất vấn về nội dung này).

Về chất vấn này, tôi xin trình bày như sau:

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhận thức rõ và luôn coi việc xây dựng, trình các dự án luật, pháp lệnh theo Nghị quyết của Quốc hội và xây dựng, ban hành các nghị định, quy định chi tiết để thi hành luật, pháp lệnh là một nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên của Chính phủ. Phiên họp thường kỳ hàng tháng của Chính phủ đều dành thời gian để làm nhiệm vụ này. Khi cần thiết, Chính phủ tổ chức họp phiên chuyên đề để thực hiện riêng nhiệm vụ này - để thảo luận về dự án luật, pháp lệnh, thảo luận về nghị định, quyết định để thi hành luật, pháp lệnh.

Tình hình nợ các văn bản, nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để thi hành luật, pháp lệnh đã diễn ra nhiều năm. Tuy năm sau có tiến bộ hơn năm trước nhưng vẫn còn chậm. Từ đầu năm 2012, Chính phủ đã tập trung sức khắc phục hạn chế yếu kém này. Đến cuối năm 2012, còn nợ 27 văn bản là nghị định, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh. Đây là một bước tiến bộ, là mức nợ thấp nhất so với 10 năm trước. Nhưng vẫn còn là một khuyết điểm, một hạn chế yếu kém của Chính phủ.

Năm 2013, các luật và pháp lệnh có hiệu lực thi hành nhiều hơn. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải ban hành tới 129 nghị định, quyết định quy định chi tiết thi hành 38 luật và pháp lệnh, tăng gấp đôi so với năm 2012. Riêng Luật xử phạt vi phạm hành chính phải ban hành tới 53 văn bản. Ngay từ đầu năm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đặc biệt quan tâm thực hiện nhiệm vụ này. Đến hôm qua (20/11/2013, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam báo cáo với Thủ tướng Chính phủ về nội dung bàn giao với Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ mới Nguyễn Văn Nên) thì đã ban hành được 110, còn nợ 19 văn bản. Năm 2013 mặc dù số văn bản phải ban hành tăng gấp đôi nhưng chỉ còn nợ 19 văn bản (năm 2012 nợ 27 văn bản). Chúng tôi cố gắng phấn đấu tới cuối năm, còn hơn một tháng nữa, sẽ ban hành hầu hết những văn bản còn lại, trừ một số văn bản khó ban hành và chưa thật là cấp bách.

Mặt khác, về chất lượng văn bản, từng bước đã được nâng lên và đã có nhiều tiến bộ. Nhưng vẫn còn một số điều quy định khi ban hành không phù hợp với thực tiễn cuộc sống, thiếu tính khả thi. Tuy chỉ là một số rất ít so với nhiều quy định đã ban hành nhưng gây bức xúc như đại biểu đã nêu.

Để khắc phục tình trạng nợ đọng và hạn chế về chất lượng văn bản, Chính phủ sẽ tiếp tục tập trung chỉ đạo 4 nhóm giải pháp sau:

Thứ nhấtlà đề cao trách nhiệm người đứng đầu, coi đây là kỷ luật kỷ cương thi hành pháp luật. Từ Thủ tướng, các Phó Thủ tướng cho đến các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ phải chịu trách nhiệm về việc xây dựng dự án luật, pháp lệnh để trình Quốc hội theo chương trình và xây dựng, ban hành nghị định, quy định trong phạm vi được phân công phụ trách là một nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên.

Thứ hai,kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ chuyên trách am hiểu về pháp luật để tham mưu giúp cho đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng làm tốt hơn công tác xây dựng văn bản quy định pháp luật.

Thứ ba, rà soát để sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền và kiến nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm bớt những quy trình, thủ tục làm kéo dài thời gian ban hành văn bản nhưng vẫn đảm bảo chặt chẽ.

Thứ tư,Điều hết sức quan trọng là phải xác định rõ tư tưởng chính sách và giải pháp chủ yếu để thực hiện trước khi soạn thảo xây dựng văn bản pháp quy. Không làm được điều này sẽ khó tạo được đồng thuận, thời gian sẽ kéo dài và chất lượng văn bản sẽ không cao.

Với các giải pháp nêu trên và bảo đảm đủ kinh phí cho nhiệm vụ này, Chính phủ sẽ phấn đấu không còn nợ đọng văn bản quy định chi tiết để thi hành luật, pháp lệnh và chất lượng văn bản pháp quy cũng sẽ từng bước được nâng lên.

3.Về nội dung chất vấn của Đại biểu nêu:Hiện nay có nhiều địa phương trong nước không có dầu nhưng vẫn được cấp phép xây dựng nhà máy lọc dầu; từ đó thông tin dư luận cho đây như một hội chứng. Xin Thủ tướng Chính phủ cho biết quan điểm của Chính phủ về quản lý quy hoạch và cấp phép các cơ sở lọc dầu để vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa đảm bảo môi trường và phù hợp với nguồn lực thực tiễn.

Về chất vấn này, tôi xin trình bày như sau:

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy hoạch phát triển ngành dầu khí Việt Nam. Hiện nay, các dự án có trong quy hoạch là:

Thứ nhấtlà Nhà máy lọc dầu Dung Quất đang vận hành tốt, công suất 6,5 triệu tấn/năm và có hiệu quả kinh tế, xã hội cao. Đang đàm phán để bán cổ phần cho đối tác Nga và dự kiến nâng công suất Nhà máy này lên 10 triệu tấn/năm.

Thứ hailà Dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn - Thanh Hóa có công suất 10 triệu tấn/năm. Chủ đầu tư là tổ hợp gồm Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (25%), đối tác Kuwait (35%) và đối tác Nhật Bản (40%). Dự án này đã được chính thức khởi công xây dựng vào tháng 10/2013. Đối tác Kuwait đã cam kết cung cấp nguyên liệu dầu thô cho cả đời Dự án này.

Thứ balà Nhà máy lọc dầu Phú Yên, chủ đầu tư là một Doanh nghiệp của Nga đầu tư 100% vốn. Các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã thẩm định và cấp Giấy chứng nhận đầu tư với công suất 8 triệu tấn/năm. Tỉnh Phú Yên đang đôn đốc chủ đầu tư khẩn trương chuẩn bị khởi công.

Thứ tưlà Dự án Nhà máy lọc dầu số 3 ở khu vực Long Sơn - Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây là Dự án nằm trong quy hoạch từ trước đây. Hiện đang kêu gọi đầu tư. Khu vực này cũng đang chuẩn bị triển khai một dự án hóa dầu.

Thứ năm,Nhà máy lọc dầu Cần Thơ công suất 2 triệu tấn/năm đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư nhưng chủ đầu tư có khả năng không thực hiện được nên Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Thành phố Cần Thơ xem xét thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư.

Thứ sáulà Dự án nhà máy lọc dầu Nam Vân Phong - Khánh Hòa. Đang kêu gọi đầu tư.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội. Có một Dự án chưa có trong quy hoạch. Đó là một tập đoàn kinh tế của Thái Lan, có giới thiệu của Chính phủ Thái Lan, xin đầu tư khu lọc hóa dầu với công suất 30 triệu tấn/năm ở Khu kinh tế Nhơn Hội - Bình Định. Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho chủ đầu tư này lập Dự án đầu tư, trình các cơ quan chức năng của Việt Nam thẩm định, nếu Dự án tuân thủ pháp luật Việt Nam, có hiệu quả cho cả Việt Nam và chủ đầu tư thì Thủ tướng Chính phủ sẽ xem xét, phê duyệt bổ sung vào quy hoạch.

- Về chất vấn của đại biểu Nguyễn Thị Phúc:

4.Về nội dung chất vấn của Đại biểu nêu:Thủy điện đã đóng góp một phần rất quan trọng vào việc bảo đảm điện năng cho đất nước. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc lập quy hoạch, đầu tư xây dựng thi công và vận hành thủy điện đã gây ra nhiều hệ lụy cho cuộc sống người dân. Xin Thủ tướng Chính phủ cho biết những giải pháp của Chính phủ nhằm khắc phục nhanh những tồn tại, hạn chế yếu kém trong lĩnh vực này. (Đại biểu Trần Thị Dung cũng chất vấn nội dung này).

Về vấn đề này, tôi xin trình bày như sau:

Thưa các vị đại biểu Quốc hội. Thủy điện là tiềm năng, lợi thế lớn của nước ta, cần được khai thác, sử dụng hiệu quả để xây dựng đất nước. Trong những năm qua, thủy điện đã đóng góp rất quan trọng vào đảm bảo điện năng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tại kỳ họp này của Quốc hội, Chính phủ đã có Báo cáo tổng thể về tình hình thủy điện, trong đó đã nêu khá rõ những mặt tích cực, hiệu quả của thủy điện và những tồn tại, hạn chế, yếu kém cả trong quy hoạch, trong lập, thẩm định, phê duyệt dự án và trong thi công xây dựng công trình; trong di dân tái định cư; trong việc bảo đảm môi trường sinh thái. Những hạn chế yếu kém này có nhiều nguyên nhân; trong đó nguyên nhân chủ quan chủ yếu là yếu kém trong quản lý nhà nước của Chính phủ, của chính quyền địa phương mà trực tiếp là các cơ quan chức năng của Chính phủ, của chính quyền địa phương.

Tiếp thu ý kiến tâm huyết, trách nhiệm của các vị đại biểu Quốc hội và của đồng bào cử tri, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đang tập trung chỉ đạo khắc phục những tồn tại, hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực này. Chính phủ sẽ khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội. Tinh thần chung là phát huy tốt nhất những mặt tích cực, hiệu quả của thủy điện, đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp để khắc phục nhanh những tồn tại, hạn chế, yếu kém. Dự án thủy điện phải bảo đảm hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, môi trường sinh thái và bảo đảm an toàn. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo thực hiện ba nhóm giải pháp cụ thể sau đây:

Thứ nhất,đối với các nhà máy thủy điện đang vận hành(hiện có 268 nhà máy với công suất hơn 14 nghìn MW):

- Rà soát, đánh giá lại sự an toàn của hồ, đập. Công trình nào không an toàn thì phải ngừng hoạt động.

- Rà soát, sửa đổi bổ sung quy trình vận hành hồ chứa đã được phê duyệt cho phù hợp với diễn biến thực tế của khí hậu, thời tiết cả mùa lũ và mùa cạn kiệt. Đồng thời, phải công khai cho nhân dân biết quy trình vận hành, không phải đợi tới khi có lũ, tới cạn kiệt mới thông báo. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ủy ban nhân dân các địa phương thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ được giao, chịu trách nhiệm quản lý chặt chẽ và buộc các chủ đầu tư phải thực hiện đúng quy trình vận hành hồ chứa, xử lý nghiêm vi phạm, từ xử phạt hành chính, kinh tế cho đến trách nhiệm hình sự theo đúng quy định của pháp luật. Yêu cầu các Bộ chức năng quản lý trên lĩnh vực này thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ được giao.

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì cùng với Bộ Công Thương khẩn trương đề xuất chính sách bổ sung đối với hộ nghèo ở những vùng tái định cư của các dự án thủy điện. Đồng thời, yêu cầu rà soát, sửa đổi bổ sung chính sách di dân tái định cư để áp dụng cho những dự án thủy điện khởi công mới.

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát, bổ sung cơ chế chính sách và yêu cầu Ủy ban nhân dân các địa phương chỉ đạo các chủ đầu tư thực hiện đúng cam kết trồng lại rừng đối với diện tích rừng đã mất do làm dự án thủy điện. Đối với địa phương không có đất để trồng bù rừng, yêu cầu chủ đầu tư đóng tiền để trồng bù rừng ở địa phương khác theo quy định.

Thứ hai, đối với các Dự án đang khởi công xây dựng(hiện có 205 dự án với công suất hơn 6.200 MW), Chính phủ yêu cầu:

- Rà soát lại thiết kế với yêu cầu là phải bảo đảm an toàn. Nếu chưa an toàn phải dừng lại để bổ sung. Không đợi đến khi xây dựng xong công trình.

- Rà soát phương án tái định cư bảo đảm đúng chính sách pháp luật. Xem xét bổ sung đối với từng dự án cụ thể để bảo đảm mục tiêu đưa dân đến nơi ở mới từng bước có cuộc sống tốt hơn.

- Kiểm tra phương án trồng bù rừng. Yêu cầu chủ đầu tư phải thực hiện đúng cam kết.

- Theo quy định, quy trình vận hành hồ chứa phải được chủ đầu tư xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt đồng bộ với việc thẩm định thiết kế cơ sở. Yêu cầu chủ đầu tư phải thực hiện đúng quy định để khi dự án thủy điện đi vào hoạt động phải có Quy trình vận hành hồ chứa được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Và phải bảo đảm các mục tiêu về hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, bảo đảm môi trường sinh thái và an toàn hồ đập.

Thứ ba, đối với số dự án nằm trong quy hoạch chưa khởi công xây dựng(khoảng 348 dự án). Tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, Chính phủ sẽ chỉ đạo tiếp tục rà soát lại quy hoạch, quản lý quy hoạch chặt chẽ hơn với trách nhiệm cao hơn đối với việc chấp thuận đầu tư mới các dự án thủy điện.

- Bộ Công Thương chịu trách nhiệm quản lý quy hoạch thủy điện trong cả nước; cùng với các bộ ngành, địa phương liên quan rà soát lại, tổ chức thẩm định và phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch đối với các dự án thủy điện còn lại chưa xây dựng này. Báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi phê duyệt.

- Việc đầu tư xây dựng mới phải được quản lý chặt chẽ hơn. Đối với dự án thủy điện nhóm B, nhóm C, Bộ Công Thương chịu trách nhiệm thẩm định, đánh giá kỹ các mặt, bảo đảm các tiêu chí theo quy định và tuân thủ đúng pháp luật thì mới chấp thuận cho phép đầu tư. Đối với dự án nhóm A, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định. Đối với dự án thuộc thẩm quyền Quốc hội quyết định, thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật.

Thưa Quốc hội,

Theo chương trình đã quy định của Đoàn Chủ tịch. Thời gian tôi trực tiếp trả lời chất vấn không còn. Tôi xin được dừng ở đây. Các chất vấn còn lại của các vị đại biểu Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ sẽ trả lời bằng văn bản và đăng công khai trên Cổng Thông tin điện tử của Chính phủ.

Thay mặt Chính phủ, tôi xin chúc các vị đại biểu Quốc hội, đồng chí đồng bào sức khỏe, hạnh phúc, thành đạt.

Xin cám ơn Quốc hội.

*

* *

Như đã hứa trước Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trả lời bằng văn bản chất vấn của 11 Đại biểu còn lại. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ xin đăng toàn văn trả lời của Thủ tướng:

- Về chất vấn của đại biểu Trần Du Lịch:

5.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Trong Báo cáo của Thủ tướng trước Quốc hội, khi đánh giá về những nguyên nhân hạn chế, yếu kém, có nguyên nhân là "Nhận thức trên một số vấn đề về chủ trương, quan điểm phát triển đã được đề ra vẫn còn khác nhau, dẫn đến đổi mới thể chế chính sách có một số vấn đề ngập ngừng, thiếu nhất quán, nhất là vai trò của nhà nước và vai trò của kinh tế nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Xin Thủ tướng cho biết và làm rõ hướng tới như thế nào nhằm bảo đảm sự nhất quán trong thực thi đẩy mạnh đổi mới thể chế chính sách để chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, tạo niềm tin thị trường.

Về chất vấn này xin trình bày như sau:

Chúng ta kiên định xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đây là con đường chưa có tiền lệ. Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 2011 của Đảng ta xác định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”, trong đó “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”; “các yếu tố thị trường phải được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân thủ theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã nêu rõ “Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường”. Và Hội nghị Trung ương 6, khóa XI của Đảng xác định “Doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ hỗ trợ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Những chủ trương lớn trên đây của Đảng phải được quán triệt, thể chế hóa và tổ chức thực hiện. Nhưng vai trò của Nhà nước, của Kinh tế nhà nước và của Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là những vấn đề rất mới, chưa có sẵn mô hình. Trong quá trình triển khai, nhận thức về phạm vi, nội hàm, định lượng, giải pháp, lộ trình, bước đi… ý kiến cũng rất khác nhau, phải chờ đợi nhau và phải dành nhiều thời gian thảo luận để cụ thể hóa. Phải vừa làm, vừa tổng kết rút kinh nghiệm, lấy kết quả thực tiễn để khẳng định sự phù hợp cũng như phương hướng và cách làm tiếp theo. Vì vậy, việc triển khai thực hiện có lúc, có việc chưa dứt khoát, chưa mạnh mẽ, chưa nhất quán và kết quả đạt được chưa như mong muốn.

Thời gian tới, cần tập trung nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để khẳng định mô hình, thống nhất nhận thức và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, đưa nhanh các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. Đồng thời phải Đẩy mạnh toàn diện công cuộc Đổimới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

- Về chất vấn của đại biểu Đỗ Thị Hoàng:

6.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho biết kết quả tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thời gian qua và các giải pháp tiếp tục thực hiện lộ trình từ nay đến năm 2015.

Xin trình bày như sau:

Kết quả tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp tiếp tục thực hiện lộ trình tái cơ cấu từ nay đến năm 2015 đã được trình bày trong các báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp này.

Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa, kể cả các tập đoàn kinh tế; thoái vốn đầu tư ngoài ngành và bán phần vốn mà Nhà nước không cần nắm giữ theo nguyên tắc thị trường, bao gồm cả doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả. Doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào lĩnh vực then chốt, thiết yếu, địa bàn quan trọng và quốc phòng an ninh. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh với nhiệm vụ chính trị, công ích. Hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước và đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra của chủ sở hữu nhà nước. Kiện toàn cán bộ quản lý và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp. Thực hiện công khai minh bạch kết quả hoạt động theo quy định của pháp luật. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm và không nghiêm túc thực hiện Đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt.

Phấn đấu đến hết năm 2015 hoàn thành việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính và thực hiện cổ phần hóa khoảng 500 trên tổng số 1.069 doanh nghiệp nhà nước.

- Về chất vấn của đại biểu Lê Như Tiếnđại biểu Nguyễn Thị Khá:

7.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Là người đứng đầu Chính phủ, xin Thủ tướng cho biết trách nhiệm trước Quốc hội về kết quả phòng chống tham nhũng của các cơ quan hành chính nhà nước. Trải qua gần 2 nhiệm kỳ, Thủ tướng đã đề nghị cắt bỏ hoặc trực tiếp cắt bỏ được bao nhiêu ung nhọt quốc nạn tham nhũng. Xin cho biết nguyên nhân và trách nhiệm liên quan đến việc thi hành án, số tài sản thu hồi được từ các vụ án tham nhũng thấp, chỉ đạt khoảng 20%, có vụ chỉ 10%; giải pháp đột phá trong thời gian tới để khắc phục, đặc biệt là 10 vụ đại án tham nhũng đã, đang và sẽ được xét xử.

Xin trình bày như sau:

Công tác phòng chống tham nhũng luôn được Đảng, Nhà nước thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Thủ tướng Chính phủ với trách nhiệm người đứng đầu Chính phủ (từ tháng 6 năm 2006) và Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng (từ tháng 9 năm 2006 đến tháng 02 năm 2013) đã nghiêm túc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Tập trung chỉ đạo xây dựng và thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng chống tham nhũng, đặc biệt là Hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính; công khai minh bạch các chính sách liên quan đến doanh nghiệp, người dân và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Tăng cường thông tin tuyên truyền, phát huy vai trò của nhân dân và báo chí trong phòng chống tham nhũng. Nâng cao năng lực và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chức năng. Đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra, điều tra và đôn đốc xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng theo đúng quy định của pháp luật, nhất là các vụ tham nhũng nghiêm trọng.

Chính phủ đã sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X, tổng kết 5 năm thực hiện Luật phòng chống tham nhũng và cũng đã báo cáo Quốc hội về công tác phòng chống tham nhũng năm 2012 và 2013. Các báo cáo đều đánh giá công tác phòng chống tham nhũng đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành động và đạt được những kết quả bước đầu, nhất là trong phòng ngừa tham nhũng, cải cách thủ tục hành chính, quản lý tài sản công, thực hiện công khai, minh bạch. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng đã từng bước được kiềm chế. Trong giai đoạn 2007 - 2013, đã truy tố gần 2.200 vụ án về tham nhũng với gần 5.300 bị can; xét xử 1.900 vụ với trên 4.300 bị cáo (đây chính là những ung nhọt). Các vụ án tham nhũng lớn đã, đang và sẽ đưa ra xét xử nghiêm minh, theo đúng quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, công tác phòng chống tham nhũng vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng. Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây bức xúc trong xã hội. Không ít cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa tự phát hiện được tham nhũng. Tham nhũng được phát hiện chủ yếu từ người dân, báo chí phản ánh hoặc do cơ quan chức năng kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra phát hiện. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan chức năng về phòng chống tham nhũng có mặt còn hạn chế. Việc xử lý một số vụ việc tham nhũng còn chậm.

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ án tham nhũng kéo dài do mất nhiều thời gian giám định thiệt hại về kinh tế, dẫn đến các tài sản là tang vật vụ án bị hư hỏng, xuống cấp, mất giá trị khi bán đấu giá, không thu hồi được đủ số tiền bị thất thoát, chiếm đoạt. Đồng thời, đối tượng tham nhũng thường có nhiều thủ đoạn tinh vi đối phó, che giấu, tẩu tán tài sản nên số tài sản, tiền kê biên ít, việc thu hồi tài sản trong thi hành án gặp nhiều khó khăn.

Thời gian tới, thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ ngành, địa phương trong bộ máy hành chính nhà nước thực hiện nghiêm túc các quy định về phòng chống tham nhũng, thực hiện đồng bộ các giải pháp với tinh thần kiên quyết, kiên trì, liên tục, đúng pháp luật để tạo chuyển biến tốt hơn. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước và trách nhiệm của người đứng đầu. Tăng cường cải cách thủ tục hành chính theo hướng công khai, minh bạch, nhất là trong các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin báo chí và nhân dân trong phòng chống tham nhũng.

Về thu hồi tài sản trong thi hành án. Chính phủ chỉ đạo khẩn trương hoàn thiện các quy định về giám định tư pháp, nhất là giám định tài chính, giám định chất lượng công trình để rút ngắn thời gian giám định thiệt hại, phục vụ kịp thời, hiệu quả việc xử lý hành vi tham nhũng. Hoàn thiện quy định pháp luật để ngăn chặn các hành vi đối phó che dấu tài sản và kiểm soát chặt chẽ tài sản của các đối tượng tham nhũng. Kiên quyết thu hồi tài sản của Nhà nước bị chiếm đoạt theo quy định của pháp luật. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án.

Những kết quả đạt được và những hạn chế yếu kém trong phòng chống tham nhũng có phần đóng góp cũng như trách nhiệm của Ủy viên Bộ Chính trị - Thủ tướng Chính phủ.

- Về chất vấn của đại biểu Ngô Văn Minh:

8.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Tính đến ngày 15/10/2013, Chính phủ còn nợ 51% văn bản quy định chi tiết để hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh đã được Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua. Xin Thủ tướng cho biết trong khi chưa có văn bản quy định chi tiết thì Chính phủ đã điều chỉnh các quan hệ xã hội và xử lý vi phạm pháp luật theo quy định nào và người dân sẽ chấp hành quy định nào của pháp luật. Cơ quan công quyền gây ra sự chậm trễ này có phải là hành vi vi phạm pháp luật không. Nếu đúng là hành vi vi phạm pháp luật thì tại sao trong báo cáo kiến nghị giải pháp không thấy có việc xử lý trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan để đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm minh.

Xin trình bày như sau:

Tình hình nợ các văn bản quy định chi tiết thi hành pháp luật và giải pháp khắc phục Thủ tướng Chính phủ đã trình bày trong nội dung trả lời chất vấn trực tiếp của Đại biểu Hà Sỹ Đồng tại Phiên họp. Xin không trình bày lại.

Việc chậm ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành pháp luật là khuyết điểm. Để xử lý “khoảng trống” pháp luật do chậm ban hành, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp để khắc phục.

Đối với Luật xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ đã báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho tiếp tục áp dụng quy định của các nghị định hiện có mà không trái với quy định của Luật này cho đến khi các Nghị định mới có hiệu lực thi hành. Đối với trường hợp chậm ban hành mà có ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ, chính sách thì cho phép áp dụng “hồi tố” theo thời điểm được quy định trong luật, pháp lệnh. Đến hết năm 2013 đã hoàn thành việc ban hành 50 Nghị định quy định chi tiết đối với các điều khoản có hiệu lực thi hành của Luật xử lý vi phạm hành chính.

- Về chất vấn của đại biểu Nguyễn Thị Quyết Tâm:

9.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Đề nghị trong báo cáo của Thủ tướng và các báo cáo của Chính phủ cần quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả của công tác chỉ đạo và đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; giải pháp gì để các chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông thôn đi vào cuộc sống để người nông dân sống được, sống khá, làm giàu bằng nghề nông và xứng đáng với đóng góp của nông dân cho sự phát triển của đất nước.

Xin trình bày như sau:

Báo cáo giải trình của Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội đã trình bày rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước quan tâm và ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2009 - 2013 tăng hơn 2,6 lần so với 5 năm trước. Hệ thống cơ sở hạ tầng được cải thiện, kinh tế nông thôn và điều kiện sống của nông dân không ngừng nâng lên. Thu nhập hộ nông dân năm 2013 ước đạt khoảng 20 triệu đồng/năm, tăng 2,2 lần so với năm 2008. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, còn 7,8% (chủ yếu là ở nông thôn).

Chính phủ chỉ đạothực hiện đồng bộ các giải pháp để đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới. Có cơ chế chính sách thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn. Khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng, nhất là giữa người nông dân và doanh nghiệp trong sản xuất, dịch vụ với quy mô phù hợp. Hình thành chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ. Tập trung phát triển sản phẩm có lợi thế so sánh, có khả năng cạnh tranh và thị trường tiêu thụ. Từng bước hình thành những tổ hợp nông - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao, gắn kết chặt chẽ với người nông dân và hướng tới xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp đa chức năng, phát triển bền vững.

Thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn, phát triển sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; chú trọng công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp sử dụng nhiều lao động để thúc đẩy tập trung ruộng đất, chuyển dịch cơ cấu lao động và kinh tế nông thôn. Đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả đào tạo nghề. Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Thực hiện hiệu quả chương trình giảm nghèo bền vững. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ, bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Tóm lại, phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới để cải thiện nhanh đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân và bảo đảm cho phát triển bền vững của đất nước.

- Về chất vấn của đại biểu Trương Thị Huệ:

10.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Việc thực hiện kỷ cương kỷ luật hành chính chưa nghiêm lặp đi lặp lại nhiều năm, chưa được khắc phục, thậm chí còn có biểu hiện gia tăng. Đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho biết trách nhiệm của mình và giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

Xin trình bày như sau:

Kỷ luật kỷ cương trong thực thi pháp luật đã có nhiều tiến bộ nhưng có những mặt, những việc vẫn chưa nghiêm là một hạn chế, yếu kém, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, gây khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội và bức xúc trong nhân dân.

Kỷ luật kỷ cương hành chính chưa nghiêm trước hết là do công tác quản lý cán bộ, công chức còn nhiều bất cập. Trách nhiệm cán bộ, công chức, nhất là của người đứng đầu chưa được đề cao đúng mức; vẫn còn tình trạng buông lỏng quản lý. Sự phân định phạm vi và trách nhiệm trong lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền chưa đủ rõ, hiệu lực hiệu quả chưa đáp ứng được yêu cầu. Tinh thần thượng tôn pháp luật chưa được quán triệt và thực hiện nghiêm túc trong hoạt động của một số cơ quan hành chính nhà nước và trong thực thi công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức.

Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo các ngành, các cấp tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp nhằm nâng cao kỷ luật kỷ cương hành chính. Thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước và Đề án cải cách chế độ công vụ, công chức. Thực hiện công khai minh bạch hoạt động và đề cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

- Về chất vấn của đại biểu Trần Thị Dung:

11.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Đề nghị Thủ tướng cho biết ý kiến chỉ đạo việc các nhà máy thủy điện xả lũ không báo trước khiến người dânchính quyền các địa phương trong vùng bão lũ, nhất là vùng hạ du không kịp trở tay.Đại biểu Đỗ Văn Đương cũng chất vấn nội dung này.

Xin trình bày như sau:

Việc vận hành tích nước, xả lũ các hồ chứa nước, bao gồm cả hồ chứa thủy lợi, thủy điện là để điều tiết nước phục vụ sản xuất, đời sống và bảo đảm an toàn cho người dân và công trình. Theo quy định tại Nghị định số 72/2007/NĐ-CP về quản lý an toàn đập, trường hợp vận hành xả lũ hồ chứa làm dâng đột ngột mức nước tại hạ lưu thì chủ đập phải có biện pháp báo động, thông báo trước để bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản cho người dân. Tuy nhiên, hầu hết các hồ chứa ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên có dung tích nhỏ, nhất là các hồ chứa thủy điện nên khả năng điều tiết lũ kém. Đồng thời, việc dự báo sớm dòng chảy đến các hồ chứa còn khó khăn dẫn tới việc vận hành tích nước, xả lũ của hồ chứa còn bị động, thời gian thông báo xả lũ ngắn. Do đó, việc cắt giảm lũ cho hạ du trong một số trường hợp vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn.

Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp cả trước mắt và lâu dài để hạn chế thấp nhất thiệt hại do xả lũ; rà soát điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật, phân công rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan đến công tác quản lý an toàn đập. Ban hành và tiếp tục hoàn thiện quy trình vận hành hồ và liên hồ chứa; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện, xử lý nghiêm các sai phạm. Xây dựng phương án phòng, chống lũ lụt cho vùng hạ du để chủ động ứng phó khi các hồ chứa xả lũ. Nâng cao khả năng dự báo, cảnh báo sớm về tình hình mưa lũ. Đầu tư xây dựng hệ thống giám sát thông tin hồ chứa, báo động xả lũ, trước hết là đối với các hồ thủy điện, thủy lợi dung tích lớn.

- Về chất vấn của đại biểu Lê Nam:

12.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Yêu cầu đổi mới đất nước đang đặt ra phải có nhiều chuyên gia giỏi, nhiều Chính phủ đã tìm kiếm các nhân tài trên thế giới. Thủ tướng có mong muốn trưng cầu hiền tài từ nguồn nhân lực chất lượng cao quốc tế, trong đó có đội ngũ các nhà khoa học, nhà quản lý là người Việt Nam ở nước ngoài về giúp Chính phủ quản trị đất nước hay không. Thủ tướng có giải pháp đột phá nào về công tác cán bộ trong thời gian tới.

Xin trình bày như sau:

Đảng và Nhà nước ta luôn có chủ trương trọng dụng người có tài năng để tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bao gồm cả người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài. Hiện nay có khoảng 4,5 triệu người Việt Nam sinh sống ở hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó nhiều trí thức, chuyên gia được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn cao trong nhiều lĩnh vực.

Nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Đảng đã khẳng định Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của Cộng đồng dân tộc Việt Nam. Có chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, nhất là chuyên gia giỏi, đầu ngành, cán bộ trẻ, tài năng. Tạo đột phá trong thu hút các chuyên gia, nhà quản lý là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài làm việc và tham gia giảng dạy, nghiên cứu tại Việt Nam.

Tuy nhiên, việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài còn hạn chế. Chính phủ đang chỉ đạo các bộ ngành chức năng nghiên cứu xây dựng các đề án, đề xuất các cơ chế chính sách phù hợp để thu hút, trọng dụng người có tài tài năng là người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

- Về chất vấn của đại biểu Đỗ Văn Đương:

13.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Vì sao có sân golf trong Sân bay Tân Sơn Nhất và vì sao Sân bay Biên Hòa, Cần Thơ và một số sân bay khác còn hoạt động cầm chừng, chưa hiệu quả lại đầu tư Sân bay Long Thành. Đồng thời, đề nghị Thủ tướng nói rõ hơn việc xả lũ thủy điện không đúng quy định và sự chỉ đạo của Thủ tướng để khắc phục vấn đề này.

Xin trình bày như sau:

Theo đề nghị của các Bộ: Quốc phòng, Xây dựng, Giao thông vận tải và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh về việc sử dụng có hiệu quả đất thuộc khu vực tĩnh không của Sân bay Tân Sơn Nhất và Sân bay Gia Lâm để xây dựng sân golf và một số công trình thể thao phù hợp (như nhiều nước đã làm), Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý và giao Bộ Quốc phòng lập quy hoạch các sân golf nói trên, quyết định cụ thể việc đầu tư xây dựng các công trình phụ trợ của từng dự án, bảo đảm an ninh, an toàn hoạt động bình thường của sân bay và phù hợp với Quy hoạch chung của hai Thành phố. Thực hiện đúng quy định về đầu tư xây dựng và thuê đất. Trường hợp Nhà nước cần thu hồi đất thì phải trả lại và không được bồi thường.

Về việc đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là trung tâm kinh tế và có nhu cầu vận tải hàng không lớn nhất của cả nước, đòi hỏi phải có cảng hàng không quốc tế quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu trung chuyển quốc tế và nội địa. Sân bay Tân Sơn Nhất có công suất tối đa khoảng 25 triệu hành khách/năm, nằm trong trung tâm thành phố, mật độ dân số cao, quỹ đất dành cho phát triển mở rộng sân bay không còn, không có hệ thống giao thông tiếp cận tương ứng, không thể xây dựng thêm đường cất hạ cánh theo giãn cách tối thiểu ICAO quy định(1.340 m). Do đó, việc mở rộng để nâng công suất lên 30-40 triệu hành khách/năm rất tốn kém và không khả thi. Mặt khác, vị trí rất gần với Sân bay quân sự Biên Hòa nên việc sử dụng đồng thời 2 sân bay sẽ bị hạn chế bởi năng lực của vùng trời, đặc biệt là khi tần suất khai thác ngày càng tăng cao.

Cảng hàng không quốc tế Long Thành có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu giao thông qua cửa ngõ thành phố Hồ Chí Minh ngày càng tăng bổ sung cho Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất khi quá tải. Cảng hàng không quốc tế Long Thành đã có trong Quy hoạch phát triển hệ thống cảng hàng không cả nước. Hiện nay, các cơ quan chức năng đang triển khai các thủ tục lậpBáo cáo đầu tư để trình Hội đồng thẩm định Nhà nước trước khi Chính phủ báo cáo Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư. Sau khi được Quốc hội thông qua thì mới triển khai các thủ tục kêu gọi vốn đầu tư để thực hiện.

Về xả lũ thủy điện, Thủ tướng Chính phủ đã trả lời chất vấn của Đại biểu Trần Thị Dung, xin không trình bày lại. Riêng về an toàn hồ chứa thủy lợi, thủy điện, trong Báo cáo giải trình và trả lời chất vấn của Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội và trong trả lời chất vấn đại biểu Nguyễn Thị Phúc cũng đã đề cập nội dung này. Chính phủ đang chỉ đạo sửa đổi Nghị định số 72/2007/NĐ-CP về quản lý an toàn hồ đập cho phù hợp, trong đó có quy định về quy trình vận hành để đảm bảo an toàn. Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp tăng cường công tác quản lý, bảo đảm an toàn hồ chứa theo Chỉ thị số 21/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

- Về chất vấn của đại biểu Đặng Thị Kim Chi:

14.Nội dung chủ yếu của chất vấn:Về việc tạm nhập tái xuất 30 nghìn tấn đường của Hoàng Anh - Gia Lai cũng như giải pháp gì để giúp cho 40 nhà máy đường, hàng triệu người nông dân và hàng vạn người lao động ở các nhà máy đường được đảm bảo cuộc sống.

Xin trình bày như sau:

Công ty cổ phần đường Biên Hòa đề nghị cho phép nhập khẩu đường thô của Công ty Hoàng Anh – Gia Lai sản xuất tại Lào về Việt Nam để chế biến thành đường tinh luyện và xuất sang Trung Quốc. Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ ngành liên quan xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ phương án xử lý theo tinh thần bảo đảm tuân thủ đúng quy định của pháp luật và các cam kết quốc tế.

Thời gian tới, ngành mía đường phải thực hiện tái cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững để nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh nhằm phát triển ổn định ngành mía đường và cải thiện đời sống người trồng mía. Tập trung rà soát hoàn thiện quy hoạch; áp dụng đồng bộ các giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành mía nguyên liệu và sản phẩm đường. Tăng nhanh diện tích trồng mía giống mới, có năng suất cao; tổ chức lại sản xuất, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung gắn với lợi ích của người trồng mía và Nhà máy đường. Đẩy mạnh cơ giới hóa; giảm tổn thất sau thu hoạch. Nâng cao hiệu quả chế biến, đa dạng hóa sản phẩm đường, sau đường... Tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm và chống buôn lậu.

Xin cảm ơn các vị Đại biểu Quốc hội.
( Nguồn từ Coiongr thông tin điện tử Chính Phủ) TT

Người tốt, việc tốt